Các nguồn tài nguyên Quá_tải_dân_số

David Pimentel,[23] Giáo sư danh sự tại Đại học Cornell, đã nói rằng "với sự phát triển không cân xứng giữa dân số và các nguồn tài nguyên tối cần thiết cho sự sống, con người cần phải bảo vệ đất canh tác, nguồn nước, năng lượng và các nguồn tài nguyên sinh thái. Cần thiết phải phát triển các nguồn tài nguyên năng lượng tái tạo. Con người ở bất kỳ đâu phải hiểu rằng tăng trưởng dân số nhanh chóng đe doạ các nguồn tài nguyên của Trái Đất và làm suy giảm chất lượng cuộc sống."[24][25]

Những điều này cũng được phản ánh trong tài liệu của hội Nghiên cứu Địa chất Hoa Kỳ Tương lai hành tinh Trái Đất: Các thách thức khoa học trong các thế kỷ tới. "Khi dân số thế giới tiếp tục tăng...con người ngày càng có nhu cầu nhiều hơn với các nguồn tài nguyên của hành tinh chúng ta, gồm khoáng chấtcác nguồn năng lượng, không gian mở, nước, và các nguồn tài nguyên động thực vật." "Sự giàu có về thiên nhiên của Trái Đất: một bản kiểm toán" của tạp chí New Scientist nói rằng nhiều khoáng chất mà chúng ta sử dụng cho nhiều sản phẩm hiện đang gặp nguy hiểm hay sẽ cạn kiệt trong tương lai gần. "[no close quote follows.] Một số nhà địa chất trên thế giới đã tính toán chi phí cho các công nghệ mới về các khoáng chất họ sử dụng và việc áp dụng chúng cho khu vực kém phát triển. Tất cả đều đồng ý rằng dân số bùng nổ của thế giới và tiêu chuẩn sống gia tăng đang đặt ra những nhu cầu chưa từng có trên các khoáng chất mà Trái Đất có thể đáp ứng. Các giới hạn về khả năng khai thác các khoáng chất có thể có nghĩa rằng kỹ thuật cũng không có giá trị gì ở thời hạn dài.... "Các mỏ kim loại còn chưa được khai thác dường như không đủ để duy trì chất lượng cuộc sống của 'thế giới phát triển' hiện đại cho mọi công dân Trái Đất theo kỹ thuật hiện nay".[26]

Mặt khác, một số tác gia, như Julian SimonBjorn Lomborg tin rằng các nguồn tài nguyên tồn tại dù cho dân số có tăng trưởng nữa. Tuy nhiên, những lời chỉ trích đã xuất hiện, điều này sẽ có một giá đắt cho Trái Đất: "những người tin vào kỹ thuật có lẽ đúng khi cho rằng tổng sản xuất lương thực thế giới sẽ tăng ổn định trong vài thập kỷ nữa...[tuy nhiên] cái giá về môi trường của cái mà Paul R. và Anne H. Ehrlich miêu tả như việc 'biến Trái Đất thành một nơi cung cấp lương thực vĩ đại cho loài người có thể rất khó khăn. Một sự mở rộng mạnh của nông nghiệp để cung cấp đủ lương thực cho dân số gia tăng của thế giới có lẽ sẽ dẫn tới sự phá rừng, tuyệt chủng các giống loài, xói mòn đất, và ô nhiễm hơn nữa từ các loại thuốc trừ sâu, phân bón khi nông nghiệp mở rộng và những vùng đất mới được đưa vào sản xuất."[27] Bởi chúng ta hoàn toàn phụ thuộc vào các hệ thống sinh vật trên Trái Đất,[28][29][30] các nhà khoa học đã đặt câu hỏi về ý định mở rộng thêm nữa.[31]

Theo Đánh giá các Hệ sinh thái Thiên niên kỷ, một nỗ lực nghiên cứu trong bốn năm của 1,360 nhà khoa học hàng đầu của thế giới nhằm tính toán giá trị hiện tại của các nguồn tài nguyên dành cho con người của thế giới, "Cơ cấu các hệ sinh thái thế giới đã thay đổi nhanh hơn trong nửa sau thế kỷ hai mươi hơn bất kỳ một thời điểm nào từng được ghi lại trong lịch sử loài người, và rõ ràng mọi hệ sinh thái Trái Đất hiện đã bị biến đổi mạnh bởi các hoạt động của con người."[32] "Các hoạt động của hệ sinh thái, đặc biệt là cung cấp thực phẩm, gỗ và cá, là rất quan trọng trong hoạt động kinh tế và việc làm của con người. Việc sử dụng quá mức các hệ sinh thái thường tạo ra ưu điểm trong ngắn hạn, nhưng việc sử dụng quá mức và không bền vững có thể dẫn tới những thiệt hại trong dài hạn. Một quốc gia có thể đốn rừng và tận diệt nguồn thuỷ sản, và điều này sẽ dẫn tới tăng GDP, dù có sự mất mát về tài sản. Nếu tổng giá trị kinh tế của các hệ sinh thái được tính đến trong việc hoạch định chính sách, sự tàn phá đối với chúng sẽ giảm đi rất nhiều hay thậm chí được đảo ngược."[33][34] The MA blames habitat loss and fragmentation for the continuing disappearance of species.

Một nghiên cứu khác của Chương trình Môi trường Liên hiệp quốc (UNEP) gọi là Global Environment Outlook với sự tham gia của 1,400 nhà khoa học và 5 năm chuẩn bị cũng đi đến những kết luận tương tự. Nếu "thấy rằng sự tiêu thụ của con người đã vượt quá các nguồn tài nguyên có thể sử dụng. Mỗi con người trên Trái Đất hiện cần diện tích đất rộng gấp ba lần diện tích Trái Đất có thể cung cấp để có đủ cho nhu cầu của mình. "Nghiên cứu chê trách sự thất bại để "đáp ứng hay nhận biết mức độ các nguy cơ mà con người và môi trường của hành tinh đang phải đối mặt... 'Sự tàn phá có hệ thống các nguồn tài nguyên tự nhiên và dựa trên tự nhiên của Trái Đất đã đạt tới mức khả năng tồn tại kinh tế của các nền kinh tế bị đe doạ - và vấn đề này sẽ được trao lại cho con cháu chúng ta với khả năng chúng không thể giải quyết'... Các tác giả bản báo cáo nói rằng mục tiêu của nó là 'không phải đưa ra môtj viễn cảnh tối tăm và ảm đạm, mà để đưa ra một lời kêu gọi khẩn thiết cho hành động'. Nó cảnh bảo rằng việc bàn bạc các vấn đề có thể ảnh hưởng tới quyền lợi của các nhóm kinh tế mạnh, và rằng môi trường phải là vấn đề quan trọng nhất trong việc quyết định chính sách... '[35]

Ngoài ra, các vấn đề khác liên quan tới chất lượng cuộc sông - liệu đa số người muốn sống trong một thế giới với hàng tỷ người thêm nữa - và quyền căn bản của các giống loài khác là được tồn tại trong các môi trường của chúng cũng cần được tính đến.

Dù mọi nguồn tài nguyên, cả khoáng chất hay khác, là có giới hạn trên hành tinh của chúng ta, có một mức độ tự sửa chữa khi một sự khan hiếm hay nhu cầu cao với một loại riêng biệt nào đó xảy ra. Ví dụ năm 1990 nguồn dự trữ được biết của nhiều tài nguyên thiên nhiên ở mức cao hơn, và giá của chúng thấp hơn, ở năm 1970, dù có nhu cầu và mức tiêu thụ lớn hơn. Khi một cơn biến động giá diễn ra thị trường thường tự sửa chữa nó hoặc bằng cách thay thế bằng một nguồn tài nguyên tương tự hoặc thay đổi bằng một công nghệ mới.[36]

Nước sạch

Xem thêm thông tin: Khủng hoảng nước

Các nguồn cung nước sạch, tối quan trọng cho nông nghiệp, đang giảm đi trên toàn thế giới.[37][38] Cuộc khủng hoảng nước này hiện đang được dự báo sẽ trầm trọng thêm khi dân số tăng lên. Lester R. Brown thuộc Viện Chính sách Thế giới cho rằng sự giảm sút các nguồn nước sạch sẽ gây hậu quả nghiêm trọng cho nông nghiệp trong tương lai.[39]

Có thể lấy nước sạch từ nước biển bằng cách khử muối. Ví dụ, Malta lấy hai phần ba nước sạch cho nhu cầu của mình bằng khử muối. Một số nhà máy khử mối bằng năng lượng hạt nhân đã được xây dựng,[40] và một số người cho rằng có đủ nhiên liệu hạt nhân cho hàng tỷ năm nữa.[41] Nhưng chi phí cao của quá trình khử muối, đặc biệt với các nước kém phát triển, khiến việc chuyển lượng lớn nước biển đã khử muối vào trong nội địa trở nên bất khả thi với các nước lớn.[42] Tuy nhiên, khi khử muối cho 1,000 gallons nước có thể mất $3, dung tích nước đóng chai tương tự có giá đến $7,945.[43]

Một nghiên cứu tìm ra rằng "cần phải đưa nước lên cao 2000 m, hay vận chuyển nó hơn 1600 km để có chi phí vận chuyển tương tự như việc khử muối.[cần dẫn nguồn] Nước đã khử muối rất đắt tại những nơi vừa xa biển vừa ở trên cao, như Riyadh và Harare. Tại những nơi khác, chi phí chủ yếu là việc khử muối chứ không phải vận chuyển. Điều này giúp giảm chi phí như tại các thành phố Bắc Kinh, Bangkok, Zaragoza, Phoenix, và, tất nhiên, các thành phố ven biển như Tripoli." Vì thế tuy nghiên cứu nói chung là khả quan về công nghệ và các địa điểm thích hợp ở gần biển, nó kết luận rằng "Nước khử muối có thể là giải pháp cho một số vùng theo nước, nhưng không phải cho các địa điểm nghèo, nằm sâu trong lục địa, hay ở độ cao lớn. Không may thay, trong số này lại có những nơi đang gặp phải vấn đề nghiêm trọng nhất."[44]

Israel hiện đang khử muối cho nước với chi phí 53 cent mỗi mét khối,[45] Singapore với giá 49 cent trên mét khối.[46] Tại Hoa Kỳ, chi phí là 81 cent trên mét khối ($3.06 cho 1,000 gallons).[47]

Một vấn đề khác của việc khử muối là "sản phẩm phụ độc hại của nước mặn là một nguyên nhân chính gây ô nhiễm biển khi bị bơm trở lại vào đại dương ở nhiệt độ cao."[44]

Nhà máy khử muối lớn nhất thế giới nằm tại là Nhà máy Khử muối Jebel Ali (Giai đoạn 2) tại Các tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất, có thể sản xuất 300 triệu mét khối nước mỗi năm,[48] hay khoảng 2500 gallon mỗi giây. Nhà máy khử mối lớn nhất Hoa Kỳ nằm tại Vịnh Tampa, Florida, bắt đầu khử muối 25 triệu gallons (95000 m³) nước mỗi ngày từ tháng 12 năm 2007.[49] Một bài báo ngày17 tháng 1 năm 2008 trên tờ Wall Street Journal nói rằng, "Trên thế giới, 13,080 nhà máy khử muối sản xuất ra hơn 12 tỷ gallon nước mỗi ngày, theo Hiệp hội Khử muối Quốc tế." [50] Sau khi được khử muối tại Jubail, Ả Rập Xê Út, nước được bơm 200 dặm vào trong đất liền thông qua đường ống tới thủ đô Riyadh.[51]

Lương thực

Một số người cho rằng có đủ lương thực để cung cấp cho dân số thế giới,[52][53] nhưng những người khác lại tranh cãi về điều này, đặc biệt nếu tính tới sự phát triển bền vững.[54]

Hiện hơn 100 quốc gia phải nhập khẩu bột mì và 40 nước nhập khẩu gạo. Ai CậpIran phải nhập khẩu 40% nhu cầu ngũ cốc của mình. Algérie, Nhật Bản, Hàn QuốcĐài Loan nhập khẩu 70% hay hơn nữa. YemenIsrael nhập khẩu hơn 90%. Và chỉ 6 nước - Hoa Kỳ, Canada, Pháp, Australia, ArgentinaThái Lan - cung cấp 90% lượng ngũ cốc xuất khẩu. Riêng Hoa Kỳ cung cấp hầu như một nửa lượng xuất khẩu ngũ cốc của thế giới.[55][56]

Một báo cáo năm 2001 của Liên hiệp quốc nói rằng tăng trưởng dân số là "lực đẩy chính điều khiển sự gia tăng nhu cầu nông nghiệp" nhưng "đa số các đánh giá gần đây của chuyên gia đều lạc quan một cách thận trọng về khả năng sản xuất lương thực tế giới để đáp ứng nhu cầu trong một tương lai có thể đoán trước (có nghĩa rằng, cho tới khoảng năm 2030 hay 2050)", với các tỷ lệ sinh đang giảm.[57]

Triển vọng toàn cầu

Tăng sản xuất lương thực đã lớn hơn tăng dân số. Thực phẩm trên người đã tăng trong giai đoạn 1961-.

Số lượng các nguồn tài nguyên thiên nhiên trong hoàn cảnh này không cần thiết phải ấn định, và sự phân bố của chúng cũng không cần phải là một zero-sum game. Ví dụ, nhờ cuộc Cách mạng xanh và thực tế rằng ngày càng có nhiều đất được chuyển từ đất hoang sang đất canh tác, sản xuất lương thực trên toàn thế giới đã tăng vững chắc cho tới tận năm 1995. Sản xuất lương thực thế giới trên đầu người năm 2005 cao hơn năm 1961.[58]

Khi dân số thế giới tăng gấp đôi từ 3 tỷ lên 6 tỷ, tiêu thụ calorie hàng ngày ở các nước nghèo đã tăng từ 1,932 lên 2,650, và phần trăm số người suy dinh dưỡng tại các quốc gia đó đã giảm từ 45% xuống còn 18%. Điều này có nghĩa rằng sự nghèo đói ở Thế giới thứ Ba gây ra bởi sự kém phát triển, không phải sự quá tải dân số.[59] Tuy nhiên, những người khác đã tỏ ra nghi ngờ những con số thống kê này.[60]

Số người quá cân đã vượt quá số người suy dinh dưỡng. Trong một bản tin năm 2006, MSNBC thông báo, "Ước tính có 800 triệu người suy dinh dưỡng và hơn một tỷ người bị coi là thừa cân trên thế giới."[61]

Tổ chức Nông Lương Liên hiệp quốc đã nói trong bản báo cáo của mình Tình trạng An ninh Lương thực trên Thế giới năm 2006, rằng tuy số người suy dinh dưỡng tại các nước đang phát triển đã giảm khoảng 3 triệu người, một tỷ lệ dân số nhỏ hơn tại các nước đang phát triển hiện nay bị suy dinh dưỡng so với thời kỳ 1990–92: 17% so với 20%. Hơn nữa, dự đoán của FAO cho rằng tỷ lệ người đói tại các nước đang phát triển sẽ giảm một nửa từ mức năm 1990-92 còn 10% năm 2015. FAO cũng cho rằng "Chúng ta phải nhấn mạnh đầu tiên và trước hết rằng giảm nạn đói không phải là một vấn đề về phương tiện trong tay cộng đồng quốc tế. Thế giới hiện giàu hơn so với nó mười năm trước. Có nhiều thực phẩm hơn và vẫn có nhiều lương thực được sản xuất ra mà không gặp áp lực về giá. Tri thức và các nguồn tài nguyên để giảm nạn đói vẫn có. Điều còn thiếu là mong muốn chính trị thực sự để tập trung các nguồn tài nguyên giải quyết vấn đề." PDF

Ở thời điểm năm 2008, giá ngũ cốc đã tăng vì nhiều khu vực đất nông nghiệp bị sử dụng sản xuất nhiên liệu sinh học,[62] giá dầu mỏ ở mức $100 mỗi barrel,[63] tăng trưởng dân số thế giới,[64] thay đổi khí hậu,[65] sự mất mát đất nông nghiệp cho phát triển công nghiệp và làm nhà ở,[66][67] và sự tăng nhu cầu tiêu thụ ở Trung QuốcẤn Độ[68][69] Các cuộc bạo loạn vì lương thựcgần đây đã diễn ra ở nhiều nước trên khắp thế giới.[70][71][72] Một bệnh dịch xuất hiện trên lúa mì do giống Ug99 hiện đang lan tràn khắp Châu Phi và vào Châu Á gây ra mối lo ngại lớn. Một bệnh dịch gây hại rất lớn trên cây lúa mì có thể tiêu diệt hầu hết thu hoạch của loại ngũ cốc chính của thế giới, khiến hàng triệu người chết đói. Loài nấm này đã lây từ châu Phi tới Iran, và có lẽ đã xuất hiện ở AfghanistanPakistan.[73][74][75]

châu Phi

Tại Châu Phi, nếu các xu hướng xói mòn đất và tăng dân số hiện tại tiếp tục, lục địa này có thể chỉ cung ứng được 25% nhu cầu lương thực cho người dân của nó vào năm 2025, theo Viện các nguồn Tài nguyên Thiên nhiên có trụ sở ở Ghana của UNU.[76]

Nạn đóisuy dinh dưỡng gây cái chết của gần 6 triệu trẻ em mỗi năm, và trong thập kỷ này con số người suy dinh dưỡng ở Châu Phi hạ Sahara cao hơn hồi thập niên 1990, theo một báo cáo do Tổ chức Nông Lương Liên hiệp quốc đưa ra. Tại châu Phi hạ Sahara, số người suy dinh dưỡng đã tăng từ 203.5 triệu năm 2000-02 từ 170.4 triệu 10 năm trước, báo cáo Tình trạng An ninh Lương thực trên Thế giới cho biết.

Theo BBC, nạn đói ở Zimbabwe có nguyên nhân vì chính phủ nắm đất canh tác.[77] Tuy nhiên, hạn hán cũng đóng một vai trò lớn.[78] Hạn hán tại miền Nam châu Phi hiện đe doạ 13 triệu người với nạn đói, 6 triệu người trong số đó sống tại Zimbabwe.[79] Sự thiếu hụt lương thực hiện nay được dự báo sẽ còn nghiêm trọng hơn.[79] Trước sự phối hợp của nạn hạn hán và chiếm đoạt đất canh tác, Zimbabwe xuất khẩu rất nhiều lương thực tới mức nước này đã được gọi là "giỏ bánh mì của miền Nam châu Phi", nên các nước khác cũng có thể bị ảnh hưởng bởi tình trạng chiếm đoạt đất đai.[77] Những người nghiên cứu nạn đói ở Zimbabwea cho rằng các nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có dư hơn nhu cầu nuôi sống người dân.[79][80][81] Một số người cho rằng các con đập và con sông ở Zimbabwe đầy nước, và rằng nạn đói không liên quan tới hạn hán.[82] Mặc dù chắc chắn rằng quản lý kém đã làm trầm trọng hơn tình trạng đói kém, bài báo ghi chú rằng "Bốn tuần không mưa trong giai đoạn nảy mầm tối quan trọng đã dấn tới tình trạng mất mùa [của những người nông dân]. Sẽ không có vụ mùa nào khác cho tới tận tháng 6 sau."

Trước khi Tổng thống Robert Mugabe chiếm đoạt đất canh tác ở Zimbabwe, các nông dân đã sử dụng hệ thống thuỷ lợi để đối phó với hạn hán, nhưng khi đã bị lấy mất đất đai, đa số các thiết bị thuỷ lợi đã bị cướp phá và huỷ hoại.[83][84] Một bài báo năm 2006 của BBC về việc chiếm đoạt đất đai nói rằng, "Những người chỉ trích nói các cuộc cải cách đã tàn phá nền kinh tế và dẫn tới nạn đói trên diện rộng. Đa số những người da trắng sở hữu đất đai trước kia không còn sản xuất ra lương thực nữa - hoặc bởi những người được nhận đất không có kinh nghiệm canh tác hoặc họ thiếu vốn hay công cụ. Nhiều nông trang đã bị phá hoại khi những người ủng hộ chính phủ tràn vào."[85]

So với mật độ dân số 33 người trên kilômét vuông của Zimbabwe, Israel có 302 người trên kilômét vuông.[86] Dù Israel là một quốc gia sa mạc với hạn hán thường xuyên và mật độ dân số rất cao, nước này không gặp nạn đói. Một lý do có thể của điều này[nghiên cứu chưa công bố?] là bởi chính phủ khuyến khích nông dân sử dụng nông nghiệp và thuỷ lợi hiện đại để gia tăng sản lượng thu hoạch.[87][88] Một lý do có thể khác là Israel là một nước nhập khẩu lương thực.[89] Cũng cần lưu ý rằng sản lượng cao của nông nghiệp hiện đại phụ thuộc vào việc sử dụng bền vững nhiên liệu hoá thạch để sản xuất ra phân bónthuốc trừ sâu và để sử dụng máy móc nông nghiệp.[90]

châu Á

Tại Trung Quốc, chỉ 8% trẻ em thiếu cân.[91] Theo một bài báo năm 2004 của BBC, Trung Quốc, nước đông dân nhất thế giới, đang gặp phải tình trạng béo phì.[92] Những dữ liệu gần đây hơn cho thấy sản lượng ngũ cốc của Trung Quốc tăng đỉnh điểm hồi giữa thập niên 1990, nhờ việc khoan nước ngầm tại đồng bằng Bắc Trung Quốc.[93]

Gần một nửa trẻ em Ấn Độ bị suy dinh dưỡng, theo dữ liệu gần đây của chính phủ.[cần dẫn nguồn] Nhật Bản có thể cũng gặp phải khủng hoảng lương thực làm giảm chất lượng bữa ăn xuống ngang mức thập niên 1950, một cố vấn cao cấp của chính phủ nước này cho biết.[94]

châu Mỹ

Theo một bài báo năm 2007 của BBC, các nhà khoa học tại Đại học Columbia đã đưa ra giả thiết rằng trong tương lai, các thành phố có mật độ dân đông đúc như México City, Los Angeles, và New York City, là những thành phố lớn nhất ở Bắc Mỹ, có thể sử dụng canh tác theo chiều dọc để trồng cây lương thực trên các toà nhà chọc trời 30 tầng.[95]

Dân số như một chức năng của khả năng tiếp cận lương thực

Các nhà tư tưởng như David Pimentel,[96] một giáo sư từ Đại học Cornell, Virginia Abernethy,[97] Alan Thornhill,[98] Russell Hopffenberg[99] và tác gia Daniel Quinn[100] đưa ra giả thiết rằng, như mọi loài động vật khác, dân số loài người dự đoán sẽ tăng và giảm theo khả năng cung cấp lương thực của mình - dân số tăng khi có nhiều lương thực, và giảm khi thiếu thốn.

Các đề xuất của lý thuyết này cho rằng mọi thời điểm sản xuất lương thực gia tăng, dân số gia tăng. Dân số loài người trong suốt lịch sử ủng hộ lý thuyết này. Dân số thời săn bắn hái lượm tăng giảm theo số lượng lương thực có được. Dân số gia tăng sau cuộc Cách mạng Thời kỳ Đồ đá mới đi liền với sự gia tăng lương thực. Tiếp đó là sự gia tăng dân số sau các cuộc cách mạng nông nghiệp.

Những người chỉ trích ý tưởng này chỉ ra rằng các tỷ lệ sinh đang ở mức thấp nhất tại các nước phát triển, cũng là những nơi có mức độ tiếp cận lương thực lớn nhất. Trên thực tế, một số nước phát triển vừa có dân số giảm vừa có nguồn cung lương thực dồi dào. Liên hiệp quốc dự đoán các quốc gia thuộc Liên Xô cũ, sẽ có số dân năm 2050 thấp hơn năm 2005.[10] Điều này cho thấy khi một người giới hạn tầm quan sát của mình vào một dân số sống trong một biên giới chính trị cho trước, dân số con người không phải luôn tăng cùng với khả năng cung cấp lương thực. Ngoài ra, nhiều quốc gia đó còn là nước xuất khẩu lương thực lớn.

Tuy nhiên, trên bình diện toàn cầu dân số thế giới đang gia tăng,[101] và lượng lương thực loài người sản xuất ra cũng tăng - một mô hình đã từng đúng trong gần 10,000 năm, bởi con người phát triển lương thực. Một số quốc gia cho thấy suy giảm dân số không không ảnh hưởng tới lý thuyết. Lương thực di chuyển xuyên biên giới từ vùng nhiều tới vùng ít. Ngoài ra, lý thuyết này không đơn giản tới mức đưa ra dự đoán dựa trên một cuộc nghiên cứu riêng biệt, như các xu hướng dân số hiện nay của Đức - và tính đến các yếu tố khác: tiếp cận dịch vụ tránh thai, các tiêu chuẩn văn hoá và quan trọng nhất là thực tế kinh tế khác biệt từ quốc gia này sp vpứo quốc gia khác.

Hậu quả cuộc khủng hoảng nước

Khủng hoảng nước, vốn đang buộc nhiều nước nhỏ phải gia tăng nhập khẩu ngũ cốc, cũng có thể nhanh chóng khiến các nước lớn như Trung Quốc hay Ấn Độ phải làm như vậy.[102] Lượng nước dang suy giảm tại các nước được nghiên cứu (gồm miền Bắc Trung Quốc, Hoa Kỳ và Ấn Độ) và tình trạng sử dụng quá mức sẽ ảnh hưởng tới sản lượng thu hoạch. Các nước khác cũng bị ảnh hưởng gồm Pakistan, Iran, và México. Việc sử dụng quá mức đã dẫn tới sự khan hiếm nước và sụt giảm năng suất. Thậm chí cả khi sử dụng nước ngầm, Trung Quốc vẫn đang thiếu hụt lương thực. Hậu quả này góp phần vào việc đẩy giá lương thực lên cao. Dự đoán 3 tỷ người trên toàn thế giới vào giữa thế kỷ này sẽ sinh ra tại những quốc gia đang ở trong tình trạng khan hiếm nước. Một giải pháp được đề xuất để giảm tăng trưởng dân số là đầu tư mạnh vào giáo dục và các dịch vụ kế hoạch hoá gia đình cho phụ nữ.[103] Khử muối cũng được xem xét như một giải pháp có thể và hiệu quả cho vấn đề thiếu hụt nước.[45][46]

Sau Trung QuốcẤn Độ, một loạt quốc gia nhỏ hơn cũng phải đối mặt với sự khan hiếm nước — Algérie, Ai Cập, Iran, México, và Pakistan. Bốn nước trong số này đã phải nhập khẩu một phần lớn nhu cầu lương thực. Chỉ Pakistan vẫn còn khả năng tự cung cấp. Nhưng với dân số tăng thêm 4 triệu người mỗi năm, nước này cũng sẽ nhanh chóng phải tính tới nhập khẩu lương thực từ thế giới.[104]

Đất đai

Viện các nguồn Tài nguyên Thế giới nói rằng "Việc biến đổi đất và đồng cỏ cho mục đích nông nghiệp đã ảnh hưởng tới 3.3 tỷ [hectares] — khoảng 26 phần trăm diện tích đất. Tổng cộng, nông nghiệp đã chiếm một phần ba diện tích rừng ôn hoàrừng nhiệt đới và một phần tư diện tích đồng cỏ tự nhiên."[105][106] Việc phát triển năng lượng cũng đòi hỏi những diện tích đất lớn; các đập thuỷ điện là một ví dụ. Đất có thể trồng trọt trở thành đất cằn sau quá trình muối hoá, phá rừng, sa mạc hoá, xói mòn, và đô thị hoá. Tình trạng nóng lên toàn cầu có thể gây lụt lội với hầu hết các vùng sản xuất nông nghiệp[107]. Vì thế, đất có thể trồng trọt có thể trở thành một yếu tố giới hạn. Theo hầu hết các ước tính, ít nhất một nửa số đất đai có thể trồng cấy hiện đã được sử dụng, và có những lo ngại rằng số đất còn lại đã bị ước tính quá mức.[108]

Các loài rau có sản lượng thu hoạch cao như khoai tâyrau diếp[cần dẫn nguồn] ít phát triển những thành phần không sử dụng được, như thân, vỏ, dây leo và các loại lá không ăn được. Các loại giống mới được lựa chọn và các loại cây lai có nhiều phần sử dụng được (quả, lá, hạt) và ít phần phải bỏ đi; tuy nhiên, nhiều loại ngũ cốc của kỹ thuật nông nghiệp hiện đã trở thành lịch sử, và các kỹ thuật mới rất khó để đạt được. Với các kỹ thuật mới, có thể trồng trọt trên một số vùng đất khó trồng trọt ở dưới một số điều kiện. Về lý thuyết nuôi trồng thuỷ sản có thể gia tăng diện tích. Kỹ thuật trồng trong nước và thực phẩm từ vi khuẩn và nấm, như quorn, có thể cho phép gia tăng lương thực mà không cần các yếu tố diện tích đất, khí hậu, hay thậm chí ánh sáng mặt trời, dù một quá trình như vậy có thể rất tốn kém năng lượng. Một số người cho rằng không phải mọi vùng đất trồng cấy được đều sẽ tiếp tục như vậy nếu được sử dụng cho nông nghiệp bởi một số vùng đất bạc màu chỉ có thể thích hợp sản xuất lượng thực bởi những quy trình không bền vững như chặt và đốt. Thậm chí với những kỹ thuật nông nghiệp mới, tính bền vững của sản xuất vẫn bị nghi ngờ.

Một số quốc gia như Các tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất và đặc biệt là tiểu Vương quốc Dubai đã xây dựng những hòn đảo nhân tạo lớn, hay đã tạo ra các hệ thống kiểu đê đập, như Hà Lan, lấy lại đất từ biển để tăng tổng diện tích đất đai của mình.[109] Một số nhà khoa học nói rằng trong tương lai, các thành phố có mật độ dân số cao sẽ sử dụng canh tác chiều dọc để trồng cây lương thực bên trong những toà nhà chọc trời.[95]

Không gian cho chính con người không phải là một vấn đề. Một số nhà tư tưởng bác bỏ sự quá tải dân số là một vấn đề đã lưu ý rằng tổng dân số thể giới có thể sống trên một vùng đất có diện tích như bang Texas. Các nguồn tài nguyên dường như đang cạn kiệt đầu tiên là đất trồng trọt, gỗ và nước sạch.

Năng lượng

Những người lạc quan về vấn đề dân số cũng đã bỉ chỉ trích vì không tính được những thiếu hụt trong tương lai về nhiên liệu hoá thạch, hiện được dùng để làm phân bón và vận tải cho nền nông nghiệp hiện đại. (Xem Đỉnh HubbertPhát triển Năng lượng Tương lai.) Họ tính rằng sẽ có đủ nhiên liệu hoá thạch cho tới khi các kỹ thuật thay thế bền vững được phát triển, ví dụ hydro trong một nền kinh tế hydro.[110][111]

Trong cuốn sách Trái Đất trong sự Cân bằng năm 1992 của mình, Al Gore đã viết, "... cần phải có thể thiết lập một chương trình phối hợp toàn cầu để hoàn thành mục tiêu chiến lược hạn chế hoàn toàn việc sử dụng động cơ đốt trong, ít nhất là, hai mươi năm năm nữa..."[112] Xe hơi chạy điện như Tesla Roadster cho thấy dự đoán của Gore sẽ trở thành hiện thực.[cần dẫn nguồn] Trái Đất có đủ uranium để cung cấp cho toàn bộ nhu cầu điện của con người cho tới khi mặt trời tắt trong 5 tỷ năm nữa, nếu chúng ta phản triển những lò phản ứng tái sinh quy mô lớn.[41]

Ngày càng có sự phát triển trong việc chế tạo năng lượng tái tạo, như năng lượng mặt trời, gió và năng lượng thuỷ triều. Nếu được áp dụng trên quy mô lớn, về lý thuyết chúng có thể đáp ứng hầu như, nếu không phải toàn bộ nhu cầu năng lượng hiện được cung cấp từ các nguồn tài nguyên không thể tái tạo.[cần dẫn nguồn] Đa số các hình thức năng lượng tái tạo dựa trên một nền kinh tế dựa trên dầu mỏ để sản xuất, ví dụ bạn không thể chế tạo tuốc bin gió nếu không bắt đầu bằng một máy chế tạo chạy bằng dầu mỏ, khiến cả quá trình bị tranh cãi. Một số trong những nguồn tài nguyên có thể tái tạo đó có ảnh hưởng sinh thái, mặc dù chúng có thể khác biệt hay nhỏ hơn so với một số nguồn năng lượng không thể tái tạo khác.

Phân bón

Nông nghiệp hiện đại sử dụng một lượng lớn phân bón. Bởi đa số lượng phân bón này được sản xuất từ dầu mỏ, vấn đề đỉnh dầu mỏ thường được đặt ra. Theo những bài viết trên tờ Discover Magazine (năm 2003 và một bài năm 2006), có thể sử dụng quá trình thermal depolymerization để sản xuất phân bón mà không tạo ra rác, nước thải, và rác nông nghiệp.[113][114]

Giàu và Nghèo

Phần trăm dân số thế giới sống với chưa tới $1 trên ngày (đã được tính bù lạm phát) đã giảm một nửa trong 20 năm. Biểu đồ thể hiện giai đoạn 1981-2001.

Liên hiệp quốc cho biết khoảng 850 triệu người bị suy dinh dưỡng hay đói,[115] và 1.1 tỷ người không thể tiếp cận nước sạch.[116] Một số người cho rằng Trái Đất có thể cung cấp đủ cho 6 tỷ người, nhưng chỉ trong trường hợp nhiều người sống trong nghèo khổ. Tỷ lệ phần trăm dân số thế giới sống với chưa tới $1 mỗi ngày đã giảm một nửa trong 20 năm, nhưng đó là những còn số chưa bù lạm phát và dường như không còn chính xác.[117]

Báo cáo Phát triển Con người năm 1997 của Liên hiệp quốc viết: "Trong 15-20 năm qua, hơn 100 nước đang phát triển và nhiều nước Đông Âu đã gặp phải tình trạng giảm phát mạnh. Sự suy giảm tiêu chuẩn sống đã trở nên mạnh và kéo dài hơn điều từng thấy ở các quốc gia công nghiệp hoá trong cuộc đại giảm phát hồi thập niên 1930. Vì thế, thu nhập của hơn một tỷ người đã giảm sút dưới mức đã từng đạt được 10, 20 hay 30 năm trước". Tương tự, dù tỷ lệ người "đói" ở Châu Phi hạ Sahara đã giảm, con số tuyệt đối người đói đã tăng vì dân số tăng. Tỷ lệ phần trăm giảm từ 38% năm 1970 còn 33% năm 1996 và dự đoán sẽ còn 30% năm 2010.[60] Nhưng dân số trong vùng đã tăng khoảng gấp đôi trong thời gian 1970 và 1996. Khiến số lượng người đói vẫn ổn định, dù tỷ lệ phần trăm có thể giảm hơn một nửa.[33][118]

Những người phản đối kiểm soát sinh sản thỉnh thoảng cho rằng quá tải dân số không liên quan tới tình trạng đói nghèo cùng cực.[119][120]

Biểu đồ bên cạnh thể hiện.

Sự giàu có trên đầu người với tỷ suất sinh.

Ở thời điểm năm 2004, có 108 quốc gia trên thế giới có dân số trên 5 triệu người. Không nước nào trong số đó, tính trung bình, phụ nữ có trung bình trên bốn đứa con trong suốt cuộc đời, có GDP trên đầu người lớn hơn $5000. Trái lại, toàn bộ chỉ trừ hai quốc gia có GDP trên đầu người lớn hơn $5,000, phụ nữ có, trung bình, 2 hay ít hơn con trong suốt cuộc đời. Israel và Ả Rập Xê Út là những trường hợp ngoại lệ, với GDP trên đầu người trong khoảng $15,000 và $25,000, và số lần sinh trung bình trong suốt đời người phụ nữ trong khoảng 2 tới 4.

Tuy nhiên, sự tương quan không ngụ ý nguyên nhân và hậu quả, bởi sự tương quan quá mạnh, có thể có một cơ cấu phản hồi đang hoạt động; đói nghèo gia tăng sinh đẻ, sinh đẻ nhiều làm tăng đói nghèo và cứ tiếp tục như vậy. Những vòng tròn như thế vốn rất khó bị phá vỡ.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Quá_tải_dân_số ftp://ftp.fao.org/docrep/fao/009/a0750e/a0750e01.p... http://www.theaustralian.news.com.au/story/0,20867... http://www.uic.com.au/nip74.htm http://english.people.com.cn/200409/16/eng20040916... http://economics.about.com/cs/macroeconomics/a/run... http://economics.about.com/cs/macroeconomics/a/run... http://www.amazon.com/dp/0393060705 http://www.amazon.com/dp/0807085723/ http://www.atimes.com/atimes/Front_Page/HE20Aa01.h... http://www.atimes.com/atimes/South_Asia/HG21Df01.h...